Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Tài liệu mẫu phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm các bài tập khác tại đây => Blog
Hình Ảnh về Tài liệu mẫu phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang
Video về Tài liệu mẫu phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang
Wiki về Tài liệu mẫu phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang
Tài liệu mẫu phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang -
Phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang là một trong những bài văn mẫu hay mà các em học sinh lớp 11 phải làm trong chương trình Ngữ Văn. Để bài văn của mình trở nên ấn tượng và độc đáo, các em có thể tham khảo bài văn mẫu dưới đây. Tuy nhiên, bạn cần biết cách áp dụng một cách khoa học, tránh lạm dụng để đạt được hiệu quả cao nhất nhé!
Hình ảnh những dòng sông từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng dồi dào của các nhà thơ, nhà văn Việt Nam. Nếu Trương Hán Siêu nổi tiếng với dòng Bạch Đằng giang, Nguyễn Tuân gắn với sông Đà, hay Nguyễn Đình Thi với dòng sông quê hương thì tên tuổi của Huy Cận gắn với hình ảnh Tràng Giang. Em hãy phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang để thấy được vẻ đẹp của dòng sông cũng như tâm trạng của tác giả.
Giới thiệu chi tiết
Tác giả Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận. Ông sinh năm 1919 tại Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu thơ, hát họa mi và kể chuyện thơ Nôm. Vùng quê nghèo tuy còn mang dáng vẻ hoang sơ nhưng rất đẹp và có sức ảnh hưởng lớn đến tâm hồn anh. Huy Cận không chỉ là nhà thơ, nhà văn mà còn là một chiến sĩ cách mạng, một nhà chính trị lỗi lạc. Ông không chỉ năng động về văn hóa, chính trị, kinh tế trong nước mà còn tích cực hoạt động quốc tế, có nhiều đóng góp cho sự phát triển ngoại giao của Việt Nam.
Sự nghiệp văn học của ông chia làm 2 thời kỳ, trước Cách mạng tháng Tám và sau Cách mạng.
Nếu như trước Cách mạng, thơ ông thường mang một nỗi buồn da diết, mang nét cô đơn, bấp bênh, thì đến thời kỳ hậu Cách mạng, thơ ông lại khởi sắc và mang màu sắc mới. Những bài thơ của Huy Cận lúc này là những tác phẩm mang thông điệp ngợi ca con người và cuộc sống mới. Tuy giá trị nghệ thuật không cao nhưng có ý nghĩa kêu gọi lòng yêu nước, truyền cảm hứng sống sâu sắc đến người đọc.
Nhắc đến nhà thơ Huy Cận, người đọc sẽ nhớ ngay đến bài thơ Tràng Giang. Đây là một trong những tác phẩm chữ ký của tác giả. Tác phẩm có lối viết triết lí, súc tích, được in trong tập Lửa thiêng ra đời trước Cách mạng tháng Tám. Nội dung bài thơ thể hiện cảnh mùa thu năm 1939 của sông Hồng, khi tác giả đứng trước cảnh non nước mênh mông. . Để hiểu rõ hơn về vẻ đẹp cũng như những thông điệp đáng suy ngẫm trong tác phẩm, chúng ta hãy cùng nhau phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang nhé!
“Em đang trôi đi đâu, hết hàng này đến hàng khác;
Bao la mà không có một chuyến phà nào qua.
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật nào,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Những lớp mây cao đùn lên những ngọn núi bạc,
Cánh chim nhỏ: bóng xế chiều.
Trái tim của đất nước phồng lên vì nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà ”.
Thân bài phân tích chi tiết hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang.
Luận điểm 1: phân tích khổ thơ 3
Cả bài thơ là bức tranh phong cảnh sông nước đượm buồn. Nếu ở hai khổ thơ đầu thể hiện hình ảnh dòng sông lẻ loi, hiu quạnh thì ở khổ thơ thứ ba lại thể hiện sự chia ly, xót xa. Nhà thơ viết “Trôi về đâu, hàng nọ nối hàng kia”. Một câu hỏi tu từ không có đáp án nhưng người đọc vẫn như lạc vào dòng sông trôi. Trôi dạt vu vơ không biết về đâu, nhấn mạnh nỗi buồn chia ly. Hình ảnh đám bèo nhỏ như càng trở nên vô định giữa sông nước mênh mông không một bóng người ” Bao la không một chuyến đò ngang ”. Cụm tính từ “mênh mông” được đảo ngữ ở đầu câu khiến không gian của dòng sông càng thêm rộng lớn. Thậm chí không phải một chiếc thuyền, cũng không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống con người. Không những không có thuyền, mà còn không có thuyền đánh cá. Hình ảnh xuất hiện ở những dòng sông để nối người với người, nối bờ này với bờ kia, kéo dài sự sống. Ở đây chỉ ” Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng. Bờ xanh ở đây là những bãi lau sậy hoang sơ, cùng với những bãi cát óng ánh. Mọi chuyện cũng có vẻ buồn nên cứ lặng lẽ bên nhau không chút xáo trộn. Đó là một cảnh buồn. Người vui mà gặp cảnh đó thì cũng buồn. Nhưng có lẽ ở đây, vì cách nhìn của tác giả, vì tác giả buồn về thế sự, về cuộc đời mà ám ảnh về không gian thiên nhiên xung quanh. Như thi hào Nguyễn Du đã từng nói: “Cảnh buồn không bao giờ vui”. Ở khổ thơ thứ ba, tác giả sử dụng những điệp ngữ ở đầu câu càng gợi cảm xúc mạnh mẽ cho người đọc về một không gian buồn hiu quạnh của dòng sông mùa thu. Không còn là nỗi buồn lãng mạn, êm đềm nữa mà là nỗi buồn của con người.
Đề 2: phân tích khổ thơ cuối
Càng phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang, người đọc càng thấy bức tranh thiên nhiên mang một vẻ đẹp đượm buồn. Ở hai câu thơ đầu của khổ thơ cuối, tác giả vẽ bằng bút pháp mang đậm màu sắc cổ điển:
“Một lớp mây cao trồi lên những ngọn núi bạc,
Cánh chim nhỏ: bóng hoàng hôn “
Hàng loạt hình ảnh ước lệ thường xuất hiện trong thơ cổ đều có mặt trong câu thơ. Đó là mây núi, gió, cánh chim, bóng chiều… Tất cả đã hội tụ để tô đậm và nhấn mạnh thêm cái buồn mênh mang của thiên nhiên cuối ngày. Cũng như khắc họa sâu sắc hơn nỗi buồn vô bờ bến của tác giả. Nếu đám mây mang dáng vẻ của nỗi buồn vô tận, như vũ trụ bao la. Thì con chim lẻ là nỗi buồn da diết, sâu lắng của tác giả. Đồng thời, cánh chim cũng báo hiệu hoàng hôn buông xuống, một ngày mới sắp kết thúc. Đặc biệt, nó còn thể hiện tâm trạng nhỏ nhoi, cô đơn trong cuộc đời của người nghệ sĩ. Đọc hai câu thơ của Huy Cận, ta chợt liên tưởng đến hai câu thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh. “Chim mòn mỏi vào rừng tìm cây ngủ, / Từng đám mây lẻ loi lững lờ trôi; Ở đây, tác giả Hồ Chí Minh còn sử dụng hình ảnh chim muông, mây trời để vừa thể hiện vẻ đẹp u buồn nơi tận cùng của thiên nhiên vũ trụ vừa gửi gắm thông điệp buồn của chính mình. Đó là những điển tích ta thường bắt gặp trong những áng văn thơ bất hủ của người xưa, cũng như tâm trạng của các thi nhân trước Cách mạng tháng Tám.
Nỗi buồn ấy hóa ra không chỉ là nỗi buồn về thế sự, mà lúc này đây, nhà thơ bỗng trào dâng nỗi nhớ quê hương da diết.
“Lòng non sông thủy chung,
Không khói, hoàng hôn cũng nhớ nhà ”
Đứng trước sông Hồng mênh mông, nhà thơ chợt nhớ đến dòng sông Lam êm đềm thuở ấu thơ. Đó là những cung bậc thăng trầm mà nhà thơ từng rong chơi cùng bạn bè. Đặc biệt nỗi nhớ da diết ấy được khắc họa và thể hiện đậm nét ở câu thơ cuối “không khói, không hoàng hôn, không nhớ nhà”. Thông thường, vào buổi tối, nhìn thấy những ngôi nhà bếp lửa nghi ngút khói xanh, người ta sẽ dễ dàng gợi nhớ về quê hương của mình. Tuy nhiên, ở đây nỗi nhớ của tác giả đã vượt lên cả những dấu ấn cố hữu ấy. Tuy không có khói nhưng trong tâm trí nhà thơ nỗi nhớ nhà da diết, da diết vẫn xoáy sâu vào tâm trí nhà thơ. Tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ sâu nặng biết nhường nào. Qua đây nhà thơ cũng bày tỏ niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương đất nước. Anh cũng mong muốn được góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Đọc những vần thơ của tác giả Huy Cận, chúng ta cũng chợt nhớ đến lời trong bài thơ Mới leo núi của tác giả Hồ Chí Minh:
“Núi ôm mây, mây ôm núi,
Lòng sông sáng, bụi không mờ.
Đi dạo Tây Phong thủ lĩnh,
Nhìn lại trời Nam, nhớ bạn cũ.
Nhìn cảnh vật thiên nhiên, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng chợt thấy nhớ nhà, nhớ nhà, nhớ bạn hiền. Dù bụi không che lấp được lòng sông nhưng nó vẫn đủ sức làm gợn lên trong lòng người một nỗi nhớ bâng khuâng.
Qua đây, chúng ta có thể chia sẻ cảm nhận của những người vừa là chiến sĩ vừa là nhà thơ. Trong lòng họ luôn chất chứa những tình cảm sâu sắc, triết lý, cùng những suy tư, chiêm nghiệm. Ở họ luôn có sự kiên cường, bất khuất của một người lính nhưng cũng đầy chất lãng mạn, man mác buồn của một hồn thơ.
Kết luận chi tiết
Phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang, một lần nữa giúp người đọc đồng cảm hơn với một tâm hồn thơ chiến sĩ. Đồng thời, cũng ghi nhận cuộc sống của một thời kỳ trong lịch sử nước nhà. Hầu hết, trước Cách mạng Tháng Tám, các nhà văn, nhà thơ vẫn chưa tìm ra lối thoát. Họ dường như vẫn còn đắm chìm trong những nỗi buồn phiền của thế gian. Họ cảm thấy cô đơn, lạc lõng, đơn độc giữa dòng đời và mất phương hướng. Chính vì vậy, họ thường thấy cảnh thiên nhiên trở nên nhuốm màu tang tóc, chia lìa mênh mông. Và họ thường tìm thấy sự bình yên trong nỗi nhớ nhà. Nhưng qua đó, các nhà thơ cũng thể hiện niềm tự hào về quê hương đất nước, với tình yêu quê hương tha thiết, khát vọng cống hiến cho đất nước.
Hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang thể hiện rõ nét bút pháp súc tích, cổ điển, triết lí của tác giả Huy Cận. Để rồi những dòng thơ cuối cùng trở thành những vần thơ bất hủ, ám ảnh mọi thế hệ độc giả. Với cách dùng từ gợi hình, bức tranh thiên nhiên của tác giả càng thấm đượm nỗi buồn. Cách đảo ngược cũng vậy, khiến những gam màu trầm của thiên nhiên trở nên sắc nét hơn.
Có thể nói, qua bài thơ, người đọc thấy được một tâm hồn thi sĩ tinh tế, nhạy cảm. Nhà thơ còn là một nghệ sĩ có bút pháp nghệ thuật độc đáo. Kế thừa phong cách văn học cổ điển và phát triển nét hiện đại riêng. Vì vậy, nhắc đến Tràng Giang, người ta nghĩ ngay đến Huy Cận.
Tài liệu mẫu phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang
#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
[rule_3_plain]#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang là một trong những bài làm văn thú vị mà các bạn học sinh lớp 11 phải làm trong chương trình Ngữ văn. Để bài viết của mình ấn tượng và độc đáo, các bạn học sinh có thể tham khảo bài mẫu dưới đây. Tuy nhiên, các bạn cần biết vận dụng một cách khoa học, tránh lạm dụng để đạt hiệu quả cao nhất!
#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
Hình tượng các dòng sông từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào của các nhà thơ, nhà văn ở Việt Nam. Nếu như Trương Hán Siêu nổi tiếng với dòng Bạch Đằng giang, Nguyễn Tuân gắn liền dòng sông Đà, hay Nguyễn Đình Thi với con sông quê hương thì tên tuổi Huy Cận lại gắn với hình ảnh Tràng Giang. Cùng phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang để thấy được vẻ đẹp của dòng dòng sông cũng như tâm trạng của tác giả. Phần mở bài chi tiết Tác giả Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận. Ông sinh năm 1919 tại Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu thích thơ ca, hát ví dặm và kể chuyện thơ Nôm. Miền quê nghèo tuy còn mang dáng vẻ hoang sơ, nhưng rất đẹp và có ảnh hưởng lớn tới tâm hồn của ông. Huy Cận không chỉ là một nhà thơ, nhà văn mà còn là một chiến sĩ Cách mạng, một nhà chính trị lỗi lạc. Ông không chỉ hoạt động văn hóa, chính trị, kinh tế trong nước mà còn năng nổ hoạt động ở quốc tế, với nhiều đóng góp cho sự phát triển ngoại giao của Việt NamSự nghiệp văn chương của ông được chia thành 2 giai đoạn, trước Cách mạng tháng 8 và sau Cách mạng.Nếu trước Cách mạng, thơ ông thường mang nỗi buồn da diết, với thiên nhiên hiu quạnh, bao lai thì khi sang giai đoạn sau Cách mạng, thơ ông đã khởi sắc, mang màu sắc tươi mới. Những bài thơ của Huy Cận lúc này là những tác phẩm mang thông điệp ca ngợi con người và cuộc sống mới. Tuy giá trị nghệ thuật không cao nhưng lại mang ý nghĩa kêu gọi tình yêu nước và truyền cảm hứng sống sâu sắc tới người đọc.
Nhắc đến nhà thơ Huy Cận, độc giả sẽ nhớ ngay tới bài thơ Tràng Giang. Đây là một trong những tác phẩm mang đậm dấu ấn, phong cách riêng của tác giả. Tác phẩm có cách viết triết lý, hàm súc, được in trong tập Lửa thiêng, ra đời trước Cách mạng tháng 8. Nội dung bài thơ thể hiện cảnh thu 1939, của dòng sông Hồng, khi tác giả đứng trước dòng nước mênh mông. Để hiểu hơn vẻ đẹp cũng như những thông điệp suy tư trong tác phẩm, chúng ta cùng đi vào phân tích hai khổ thơ cuối bài Trang Giang nhé!“Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Thân bài chi tiết phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang Luận điểm 1: phân tích khổ thơ 3 Toàn bộ bài thơ là một bức tranh vẽ phong cảnh dòng sông man mác buồn. Nếu ở hai khổ thơ đầu, là hình dòng sông đìu hiu hoang vắng, cô liêu thì ở khổ thơ thứ ba, thể hiện sự chia li, buồn thương. Nhà thơ viết “bèo dạt về, đâu hàng nối hàng”. Một câu hỏi tu từ không lời đáp nhưng độc giả vẫn cảm nhận được sự lạc lõng giữa dòng sông của những cánh bèo dạt. Trôi đi vô định và không biết đi đâu về đâu, nhấn mạnh thêm nỗi sầu chia li. Hình ảnh cánh bèo nhỏ bé như càng vô định hơn giữa dòng sông mênh không một bóng người “ Mênh mông không một chuyến đò ngang”. Cụm tính từ “mênh mông” được đảo ngữ lên đầu câu khiến cho không gian của dòng sông càng trở nên rộng lớn. Đã thế còn không một chuyến đò, lẫn dấu hiệu sự sống của con người. Không chỉ không có đò mà cũng không có những câu cầy. Hình ảnh vốn xuất hiện ở các dòng sông để nối tiếp người với người, nối bờ bên này với bờ bên kia, nối dài sự sống. Ở đây, chỉ còn “ Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Bờ xanh ở đây chính là những bãi cây lau sậy ngút ngàn hoang dại, cùng với những bãi cát váng óng ánh. Sự vật dường như cũng buồn thương, nên cứ lặng lẽ bên nhau mà không có chút xao động nào. Thật là một cảnh tượng sầu thảm. Nếu người vui vẻ mà gặp cảnh đó chắc cũng buồn lây. Nhưng có lẽ ở đây, do cái nhìn của tác giả, do tác giả đang buồn về nhân thế, về cuộc đời mà ám ảnh lên cả không gian thiên nhiên bao lao xung quanh. Giống như nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói: “Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”. Ở khổ thơ ba, tác giả sử dụng những từ láy ở đầu câu càng gợi tả cho người đọc những xúc cảm mạnh về một không gian buồn man mác của dòng sông thu. Nó không còn là vẻ buồn lãng mạn, êm đềm nữa mà là nỗi buồn sầu nhân thế. Luận điểm 2: phân tích khổ thơ cuối Càng phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang, độc giả càng thấy bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp buồn đến nao lòng. Ở hai câu thơ đầu của khổi cuối, tác giả vẽ với ngòi bút mang đậm sắc màu cổ điển:“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”Một loạt các hình ảnh mang tính ước lệ thường xuất hiện trong thơ cổ đã có mặt trong câu thơ. Đó là mây núi, gió, cánh chim, bóng chiều… Tất cả đã hội tụ lại làm nổi bật và nhấn mạnh hơn cái không khí buồn thương mênh mang của thiên nhiên lúc ngày sắp tàn. Cũng như càng khắc họa sâu sắc hơn nỗi buồn vô bờ của tác giả. Nếu đám mây mang dáng vẻ của nỗi buồn vô tận, như vũ trụ bao la. Thì cánh chim lẻ là nỗi buồn thấu tận tâm can, vô cùng sâu nặng của tác giả. Đồng thời, cánh chim còn báo hiệu hoàng hôn tới, ngày mới sắp hết. Đặc biệt nó còn cho thấy tâm thế nhỏ nhoi, cô độc giữa dòng đời của người nghệ sĩ. Đọc hai câu thơ của Huy Cận, chúng ta bất chợt liên tưởng tới hai câu thơ trong bài Chiều tối của Hồ Chí Minh “Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,/ Chòm mây lẻ trôi lững lờ trên tầng không;” Ở đây, tác giả Hồ Chí Minh cũng sử dụng hình ảnh chim, mây, trời để vừa biểu đạt vẻ đẹp buồn của ngày tàn của vũ trụ thiên nhiên, vừa gửi gắm thông điệp nỗi buồn của bản thân. Đó là những lối dùng văn phong cổ điển chúng ta thường bắt gặp trong những áng thơ ca bất hủ của người thời xưa, cũng như tâm trạng của những nhà thơ trước Cách mạng tháng 8.Nỗi buồn ấy hóa ra không chỉ là nỗi buồn về nhân thế, mà ngay lúc này đây, nhà thơ bỗng trào dâng lên nỗi nhớ quê hương.“Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”Đứng trước dòng sông Hồng mênh mông nước, nhà thơ bỗng nhớ về dòng sông Lam tuổi thơ êm đềm. Đó là những con nước lên xuống mà xưa kia nhà thơ vẫn cùng chúng bạn vui đùa. Đặc biệt nỗi nhớ da diết ấy được khắc họa và lột tả đậm nét ở câu thơ cuối “không khói hoang hôn cũng nhớ nhà”. Thông thường, khi chiều xuống, nhìn thấy những căn nhà nổi lửa với những đám khói bếp lam chiều, sẽ dễ khiến lòng người nhớ về cố hương. Thế nhưng, ở đây nỗi nhớ của tác giả đã vượt qua cả những dấu hiệu vốn có ấy. Dù không có khói bốc lên nhưng trong tâm trí của nhà thơ vẫn cuồn cuộn lên nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương tha thiết, mãnh liệt. Thế mới biết, tình yêu quê hương của nhà thơ sâu đậm đến nhường nào. Qua đây, nhà thơ cũng thể hiện niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương. Ông cũng khát khao góp sức mình vào công cuộc xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp hơn.Đọc những vẫn thơ của tác giả Huy Cận, chúng ta cũng chợt nhớ tới những lời thơ trong bài Mới leo ra tập leo núi của tác giả Hồ Chí Minh:“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,Lòng sông gương sáng, bụi không mờ.Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh,Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa”.Nhìn phong cảnh thiên nhiên, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng bỗng thấy nhớ nhà, nhớ quê, nhớ bạn hiền da diết. Dù bụi không mờ lòng sông nhưng vẫn đủ sức gợn lên trong lòng người nỗi nhớ quê rạo rực xốn xang.Qua đây, chúng ta có thể chung cảm nhận về những người vừa là chiến sĩ vừa là thi sĩ. Trong tâm hồn họ luôn chan chứa những nỗi niềm triết lý, sâu xa, cùng với những suy tư và chiêm nghiệm. Ở họ luôn có sự kiên cường, bất khuất của một chiến sĩ nhưng cũng tràn đầy sự lãng mạn, buồn thương của một tâm hồn thi ca. Phần kết bài chi tiết Phân tích hai khổ thơ cuối bài Trang Giang, một lần nữa giúp độc giả thấu cảm hơn một tâm hồn chiến sĩ thi sĩ. Đồng thời cũng nhận biết được cuộc sống của một gia đoạn lịch sử đất nước. Hầu hết, trước Cách mạng tháng 8, các nhà văn, nhà thơ vẫn chưa tìm được lối thoát. Họ dường như vẫn chìm đắm trong những nỗi buồn thương sầu bi của nhân thế. Họ cảm thấy cô đơn, lạc lỏng, lẻ loi giữa dòng đời và mất phương hướng. Vì thế, họ thường thấy cảnh thiên nhiên trở nên nhuốm màu tang thương, mênh mang chia ly. Và họ thường tìm thấy nỗi bình an khi nhớ về quê hương. Nhưng qua đó, các thi sĩ cũng thể hiện niềm tự hào về quê hương, cùng tình yêu quê tha thiết nồng nàn, và nỗi khát vọng muốn cống hiến cho đất nước.Hai khổ thơ cuối của bài Tràng Giang đã thể hiện rõ phong cách thơ hàm súc, cổ điển và triết lý của tác giả Huy Cận. Để rồi những dòng thơ cuối đã trở thành những lời thơ bất hủ, ám ảnh mọi thế hệ người đọc. Với cách sử dụng các từ láy gợi hình gợi, bức tranh thiên nhiên của tác giả càng thêm thấm đượm nỗi buồn. Cùng cách đảo ngữ, khiến những nét màu trầm của thiên nhiên càng trở nên sắc nét.Có thể nói, qua bài thơ độc giả nhận thấy một tâm hồn thi sĩ tinh tế và nhạy cảm. Nhà thơ cũng là một nghệ sĩ với ngòi bút nghệ thuật đặc sắc. Vừa kế thừa những phong cách văn học cổ điển vừa phát triển thêm những nét riêng hiện đại của bản thân. Chính vì thế, nhắc đến Tràng Giang là người ta nghĩ ngay tới Huy Cận.
#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
Hình tượng các dòng sông từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào của các nhà thơ, nhà văn ở Việt Nam. Nếu như Trương Hán Siêu nổi tiếng với dòng Bạch Đằng giang, Nguyễn Tuân gắn liền dòng sông Đà, hay Nguyễn Đình Thi với con sông quê hương thì tên tuổi Huy Cận lại gắn với hình ảnh Tràng Giang. Cùng phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang để thấy được vẻ đẹp của dòng dòng sông cũng như tâm trạng của tác giả. Phần mở bài chi tiết Tác giả Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận. Ông sinh năm 1919 tại Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu thích thơ ca, hát ví dặm và kể chuyện thơ Nôm. Miền quê nghèo tuy còn mang dáng vẻ hoang sơ, nhưng rất đẹp và có ảnh hưởng lớn tới tâm hồn của ông. Huy Cận không chỉ là một nhà thơ, nhà văn mà còn là một chiến sĩ Cách mạng, một nhà chính trị lỗi lạc. Ông không chỉ hoạt động văn hóa, chính trị, kinh tế trong nước mà còn năng nổ hoạt động ở quốc tế, với nhiều đóng góp cho sự phát triển ngoại giao của Việt NamSự nghiệp văn chương của ông được chia thành 2 giai đoạn, trước Cách mạng tháng 8 và sau Cách mạng.Nếu trước Cách mạng, thơ ông thường mang nỗi buồn da diết, với thiên nhiên hiu quạnh, bao lai thì khi sang giai đoạn sau Cách mạng, thơ ông đã khởi sắc, mang màu sắc tươi mới. Những bài thơ của Huy Cận lúc này là những tác phẩm mang thông điệp ca ngợi con người và cuộc sống mới. Tuy giá trị nghệ thuật không cao nhưng lại mang ý nghĩa kêu gọi tình yêu nước và truyền cảm hứng sống sâu sắc tới người đọc.
Nhắc đến nhà thơ Huy Cận, độc giả sẽ nhớ ngay tới bài thơ Tràng Giang. Đây là một trong những tác phẩm mang đậm dấu ấn, phong cách riêng của tác giả. Tác phẩm có cách viết triết lý, hàm súc, được in trong tập Lửa thiêng, ra đời trước Cách mạng tháng 8. Nội dung bài thơ thể hiện cảnh thu 1939, của dòng sông Hồng, khi tác giả đứng trước dòng nước mênh mông. Để hiểu hơn vẻ đẹp cũng như những thông điệp suy tư trong tác phẩm, chúng ta cùng đi vào phân tích hai khổ thơ cuối bài Trang Giang nhé!“Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Thân bài chi tiết phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang Luận điểm 1: phân tích khổ thơ 3 Toàn bộ bài thơ là một bức tranh vẽ phong cảnh dòng sông man mác buồn. Nếu ở hai khổ thơ đầu, là hình dòng sông đìu hiu hoang vắng, cô liêu thì ở khổ thơ thứ ba, thể hiện sự chia li, buồn thương. Nhà thơ viết “bèo dạt về, đâu hàng nối hàng”. Một câu hỏi tu từ không lời đáp nhưng độc giả vẫn cảm nhận được sự lạc lõng giữa dòng sông của những cánh bèo dạt. Trôi đi vô định và không biết đi đâu về đâu, nhấn mạnh thêm nỗi sầu chia li. Hình ảnh cánh bèo nhỏ bé như càng vô định hơn giữa dòng sông mênh không một bóng người “ Mênh mông không một chuyến đò ngang”. Cụm tính từ “mênh mông” được đảo ngữ lên đầu câu khiến cho không gian của dòng sông càng trở nên rộng lớn. Đã thế còn không một chuyến đò, lẫn dấu hiệu sự sống của con người. Không chỉ không có đò mà cũng không có những câu cầy. Hình ảnh vốn xuất hiện ở các dòng sông để nối tiếp người với người, nối bờ bên này với bờ bên kia, nối dài sự sống. Ở đây, chỉ còn “ Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Bờ xanh ở đây chính là những bãi cây lau sậy ngút ngàn hoang dại, cùng với những bãi cát váng óng ánh. Sự vật dường như cũng buồn thương, nên cứ lặng lẽ bên nhau mà không có chút xao động nào. Thật là một cảnh tượng sầu thảm. Nếu người vui vẻ mà gặp cảnh đó chắc cũng buồn lây. Nhưng có lẽ ở đây, do cái nhìn của tác giả, do tác giả đang buồn về nhân thế, về cuộc đời mà ám ảnh lên cả không gian thiên nhiên bao lao xung quanh. Giống như nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói: “Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”. Ở khổ thơ ba, tác giả sử dụng những từ láy ở đầu câu càng gợi tả cho người đọc những xúc cảm mạnh về một không gian buồn man mác của dòng sông thu. Nó không còn là vẻ buồn lãng mạn, êm đềm nữa mà là nỗi buồn sầu nhân thế. Luận điểm 2: phân tích khổ thơ cuối Càng phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang, độc giả càng thấy bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp buồn đến nao lòng. Ở hai câu thơ đầu của khổi cuối, tác giả vẽ với ngòi bút mang đậm sắc màu cổ điển:“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”Một loạt các hình ảnh mang tính ước lệ thường xuất hiện trong thơ cổ đã có mặt trong câu thơ. Đó là mây núi, gió, cánh chim, bóng chiều… Tất cả đã hội tụ lại làm nổi bật và nhấn mạnh hơn cái không khí buồn thương mênh mang của thiên nhiên lúc ngày sắp tàn. Cũng như càng khắc họa sâu sắc hơn nỗi buồn vô bờ của tác giả. Nếu đám mây mang dáng vẻ của nỗi buồn vô tận, như vũ trụ bao la. Thì cánh chim lẻ là nỗi buồn thấu tận tâm can, vô cùng sâu nặng của tác giả. Đồng thời, cánh chim còn báo hiệu hoàng hôn tới, ngày mới sắp hết. Đặc biệt nó còn cho thấy tâm thế nhỏ nhoi, cô độc giữa dòng đời của người nghệ sĩ. Đọc hai câu thơ của Huy Cận, chúng ta bất chợt liên tưởng tới hai câu thơ trong bài Chiều tối của Hồ Chí Minh “Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,/ Chòm mây lẻ trôi lững lờ trên tầng không;” Ở đây, tác giả Hồ Chí Minh cũng sử dụng hình ảnh chim, mây, trời để vừa biểu đạt vẻ đẹp buồn của ngày tàn của vũ trụ thiên nhiên, vừa gửi gắm thông điệp nỗi buồn của bản thân. Đó là những lối dùng văn phong cổ điển chúng ta thường bắt gặp trong những áng thơ ca bất hủ của người thời xưa, cũng như tâm trạng của những nhà thơ trước Cách mạng tháng 8.Nỗi buồn ấy hóa ra không chỉ là nỗi buồn về nhân thế, mà ngay lúc này đây, nhà thơ bỗng trào dâng lên nỗi nhớ quê hương.“Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”Đứng trước dòng sông Hồng mênh mông nước, nhà thơ bỗng nhớ về dòng sông Lam tuổi thơ êm đềm. Đó là những con nước lên xuống mà xưa kia nhà thơ vẫn cùng chúng bạn vui đùa. Đặc biệt nỗi nhớ da diết ấy được khắc họa và lột tả đậm nét ở câu thơ cuối “không khói hoang hôn cũng nhớ nhà”. Thông thường, khi chiều xuống, nhìn thấy những căn nhà nổi lửa với những đám khói bếp lam chiều, sẽ dễ khiến lòng người nhớ về cố hương. Thế nhưng, ở đây nỗi nhớ của tác giả đã vượt qua cả những dấu hiệu vốn có ấy. Dù không có khói bốc lên nhưng trong tâm trí của nhà thơ vẫn cuồn cuộn lên nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương tha thiết, mãnh liệt. Thế mới biết, tình yêu quê hương của nhà thơ sâu đậm đến nhường nào. Qua đây, nhà thơ cũng thể hiện niềm tự hào về vẻ đẹp của quê hương. Ông cũng khát khao góp sức mình vào công cuộc xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp hơn.Đọc những vẫn thơ của tác giả Huy Cận, chúng ta cũng chợt nhớ tới những lời thơ trong bài Mới leo ra tập leo núi của tác giả Hồ Chí Minh:“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,Lòng sông gương sáng, bụi không mờ.Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh,Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa”.Nhìn phong cảnh thiên nhiên, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng bỗng thấy nhớ nhà, nhớ quê, nhớ bạn hiền da diết. Dù bụi không mờ lòng sông nhưng vẫn đủ sức gợn lên trong lòng người nỗi nhớ quê rạo rực xốn xang.Qua đây, chúng ta có thể chung cảm nhận về những người vừa là chiến sĩ vừa là thi sĩ. Trong tâm hồn họ luôn chan chứa những nỗi niềm triết lý, sâu xa, cùng với những suy tư và chiêm nghiệm. Ở họ luôn có sự kiên cường, bất khuất của một chiến sĩ nhưng cũng tràn đầy sự lãng mạn, buồn thương của một tâm hồn thi ca. Phần kết bài chi tiết Phân tích hai khổ thơ cuối bài Trang Giang, một lần nữa giúp độc giả thấu cảm hơn một tâm hồn chiến sĩ thi sĩ. Đồng thời cũng nhận biết được cuộc sống của một gia đoạn lịch sử đất nước. Hầu hết, trước Cách mạng tháng 8, các nhà văn, nhà thơ vẫn chưa tìm được lối thoát. Họ dường như vẫn chìm đắm trong những nỗi buồn thương sầu bi của nhân thế. Họ cảm thấy cô đơn, lạc lỏng, lẻ loi giữa dòng đời và mất phương hướng. Vì thế, họ thường thấy cảnh thiên nhiên trở nên nhuốm màu tang thương, mênh mang chia ly. Và họ thường tìm thấy nỗi bình an khi nhớ về quê hương. Nhưng qua đó, các thi sĩ cũng thể hiện niềm tự hào về quê hương, cùng tình yêu quê tha thiết nồng nàn, và nỗi khát vọng muốn cống hiến cho đất nước.Hai khổ thơ cuối của bài Tràng Giang đã thể hiện rõ phong cách thơ hàm súc, cổ điển và triết lý của tác giả Huy Cận. Để rồi những dòng thơ cuối đã trở thành những lời thơ bất hủ, ám ảnh mọi thế hệ người đọc. Với cách sử dụng các từ láy gợi hình gợi, bức tranh thiên nhiên của tác giả càng thêm thấm đượm nỗi buồn. Cùng cách đảo ngữ, khiến những nét màu trầm của thiên nhiên càng trở nên sắc nét.Có thể nói, qua bài thơ độc giả nhận thấy một tâm hồn thi sĩ tinh tế và nhạy cảm. Nhà thơ cũng là một nghệ sĩ với ngòi bút nghệ thuật đặc sắc. Vừa kế thừa những phong cách văn học cổ điển vừa phát triển thêm những nét riêng hiện đại của bản thân. Chính vì thế, nhắc đến Tràng Giang là người ta nghĩ ngay tới Huy Cận.
#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
[rule_3_plain]#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang là một trong những bài làm văn thú vị mà các bạn học sinh lớp 11 phải làm trong chương trình Ngữ văn. Để bài viết của mình ấn tượng và độc đáo, các bạn học sinh có thể tham khảo bài mẫu dưới đây. Tuy nhiên, các bạn cần biết vận dụng một cách khoa học, tránh lạm dụng để đạt hiệu quả cao nhất!
Thông tin thêm
Tài liệu mẫu phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang
#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
[rule_3_plain]#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
[rule_1_plain]#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
[rule_2_plain]#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
[rule_2_plain]#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
[rule_3_plain]#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang
[rule_1_plain]Nguồn: https://ecogreengiapnhi.net/
#Tài #liệu #mẫu #phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #Tràng #Giang