Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm các bài tập khác tại đây => Blog
Hình Ảnh về Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang
Video về Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang
Wiki về Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang
Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang -
Phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ, ta thấy được nỗi nhớ quê hương da diết của Huy Cận, trước cảnh sông nước mênh mông.
Khai mạc
Giới thiệu tác giả và tác phẩm của ông
Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới và là một trong những cây đại thụ của nền thơ hiện đại Việt Nam. Phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ. Chúng ta sẽ thấy một nét đặc sắc trong thơ Huy Cận. Ông thường được nhớ đến với hồn thơ sầu muộn hay thi sĩ của nỗi lo không gian.
Bài thơ “Tràng Giang” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Huy Cận, được in trong tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay nhưng đã thể hiện được cái “chín” trong sáng tác của ông. Đoạn thơ gợi không gian sông Hồng, bến Chèm mùa lũ. Lúc sáng tác bài thơ Huy Cận đang là sinh viên trường Cao đẳng Nông nghiệp. Đứng trước sông nước mênh mông, anh thể hiện tâm trạng cô đơn, sầu muộn, lạc lõng của kiếp người trước vũ trụ bao la, vô tận, vô tận. Có thể cảm nhận rõ nhất điều này trong hai khổ thơ cuối của bài thơ.
“Em đang trôi đi đâu, hết hàng này đến hàng khác;
Bao la mà không có một chuyến phà nào qua.
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật nào,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Những lớp mây cao đùn lên những ngọn núi bạc,
Cánh chim nhỏ: bóng xế chiều.
Trái tim của đất nước phồng lên vì nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà ”.
Thân hình
Phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ.
Phân tích hai khổ thơ cuối của khổ thơ thứ ba
Trước khi đi vào phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ, chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa nhan đề của bài thơ. “Tràng giang” là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, trang nghiêm gợi cho ta nhớ đến dòng sông chia xa ta đã gặp trong thơ Lý Bạch. Bên cạnh đó, vần “ang” trong hai từ khi đọc thành tiếng còn vang lên gợi không gian bao la xa vắng, trải dài của bến nước. Vì vậy, ngay từ nhan đề, Huy Cận đã mở ra một cái nhìn về cái vô biên. Hai chữ Trường Giang tuy ngắn gọn nhưng đã khái quát và phần nào làm rõ được tư tưởng, thông điệp của nhà thơ trong bài thơ.
Bên cạnh đó, để phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ. Sâu xa hơn, chúng ta không thể bỏ qua nhan đề bài thơ: “Hoa đăng trời nhớ sông dài”. Chỉ một câu thơ nhưng Huy Cận đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của cả tác phẩm. Đó là nỗi buồn, sự ngậm ngùi của một con người nhỏ bé trước trời rộng, sông dài. Như vậy, lời tựa chính là chìa khóa để người đọc mở cánh cửa và khám phá nội dung bài thơ.
Đọc cả bài thơ, ta thấy ở khổ thơ đầu tiên nhà thơ nhìn cảnh sóng lăn tăn trên mặt sông, dừng mắt nhìn con đò lẻ loi, sau đó là cảnh củi khô lạc vào bốn bề sông nước. ; Ở khổ thơ thứ hai, Huy Cận như mở mang tầm mắt xa hơn, rộng hơn với cái nhìn toàn cảnh bao la. Và ở khổ thơ thứ ba, Huy Cận lại nhìn dòng sông, như tìm kiếm những điều thân thuộc, một chút ấm áp cho tâm hồn cô đơn, lạnh lẽo. Nhưng khi phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ. Ta thấy thiên nhiên dường như chỉ dửng dưng trước những mong ước ấy của thi nhân, bởi xung quanh chỉ là vẻ hiu quạnh, hiu quạnh:
“Bạn trôi dạt đến đâu, hết hàng này đến hàng khác,
Bao la mà không có một chuyến phà nào qua.
Không yêu cầu bất kỳ sự thân mật nào,
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.
Thay vì những con thuyền, những cành cây khô xuất hiện trong cái nhìn cận cảnh của dòng sông ở khổ thơ đầu; Trong khổ thơ thứ ba này, có một hình ảnh buồn không kém: bèo dạt. Dòng sông vốn dĩ rất “buồn”, sự xuất hiện của đám bèo trôi càng làm cho dòng nước thêm hiu quạnh. Đôi cánh lênh đênh ấy là sự tiếp nối của hình ảnh “thuyền trên mui” và “củi một cành khô” xuất hiện trong khổ thơ đầu. Và cũng từ đây, từ hình ảnh đám bèo bồng bềnh cũng gợi cảm giác về một kiếp phù du vô định. Phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ. Ta thấy, câu thơ “Bèo dạt mây trôi hàng đâu” được ngắt nhịp 2/2/1/2. Khoảng dừng này thể hiện sự dao động của sóng nước và cũng mô tả trạng thái bồng bềnh của những cánh bèo trôi trên sông.
Còn với hai từ “đi đâu về đâu”, Huy Cận muốn nói lên sự mất phương hướng, hoang mang và những linh cảm bất an về số phận con người trong một thế giới không có sự gắn kết, chia sẻ. Giữa dòng đời trăm phương, bận rộn mà lẻ loi, chẳng biết đi đâu về đâu. Huy Cận không biết hỏi ai nên tự hỏi mình, nhưng không tìm được câu trả lời.
Đứng trước cảnh trời nước bao la, nhà thơ đem lòng mình để đồng cảm với con người, mong cho mình bớt cô đơn, vơi đi nỗi cô đơn. Nhưng làm sao mà an ủi được, khi “Mênh mông không một con đò ngang qua / Không hỏi một chút tri kỷ. Nỗi trống vắng cô đơn của nhà thơ được tô đậm bằng hai từ phủ định liên tiếp” không “. Thực ra, cầu hay đò là cảnh ta thường gặp ở những dòng sông. , vì nó là phương tiện đi lại, là phương tiện giao tiếp, gặp gỡ giữa con người với nhau, nhưng ở đây không thấy nhà thơ, không có cây cầu nối hai bờ sông để san sát, không có bến phà đưa đò. khách qua sông. Mọi thứ chỉ còn là hoang vắng, xanh vàng của đôi bờ nối tiếp nhau:
“Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng”
“Lặng” là từ lóng để chỉ sự tĩnh lặng của không gian, cùng với hình ảnh “bờ xanh bên bãi”, không gian giữa hai bờ sông càng trở nên hoang vắng, hoang vắng. Đọc đoạn thơ, người đọc có thể cảm nhận rõ dòng sông chảy chậm từ khúc này sang khúc khác nhưng luôn giữ được vẻ trầm mặc, tĩnh lặng. Dòng chảy của sông Hồng lúc này rất khác với màu xanh tươi vui của sông Hương chảy về thành phố Huế trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Vì vậy, khi phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ. nhưng đầu tiên ở khổ thơ thứ ba, ta thấy một thế giới hững hờ, rời rạc. Và ở nơi này, người ta càng thấm thía nỗi cô đơn, hoang vắng đến tột cùng. Nỗi cô đơn sầu muộn ấy dường như ngấm vào từng câu chữ, từng hình ảnh trong khổ thơ. Nó phản ánh sự cô đơn đã trở thành một căn bệnh của con người trong xã hội thế kỷ 20. Căn bệnh này đã xuất hiện nhiều lần trong y văn phương Tây:
Mỗi người đứng một mình trên trái đất
Trái tim qua tia nắng
Và chia tay
Buổi chiều đã tắt
Phân tích hai khổ thơ cuối của khổ thơ cuối.
Cuối bài thơ, Huy Cận vẽ cảnh hoàng hôn trên sông. Nỗi cô đơn vẫn tiếp diễn và trải dài theo sóng, trôi theo con thuyền, theo cành lạc, theo bèo trôi và cho đến cuối cùng, nó kết thúc ở câu thơ cuối:
“Một lớp mây cao trồi lên những ngọn núi bạc,
Cánh chim nhỏ trong bóng tối
Trái tim của đất nước phồng lên vì nước,
Không khói, hoàng hôn cũng nhớ nhà ”
Ở khổ cuối của bài thơ “Tràng giang”, ta thấy Huy Cận chia khổ thơ thành hai phần rõ rệt. Hai câu thơ trên gợi ra bầu trời bao la, hai câu cuối gợi tả cảnh sông dài. Cùng với trời rộng, sông dài là nỗi cô đơn sầu muộn, là nỗi nhớ da diết, nhớ nhung của nhà thơ, nhất là lúc hoàng hôn khép lại ngày tháng.
Phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ. Chúng ta thấy tài hoa của Huy Cận khi vẽ dấu chấm đậm nét Đường Thi, phác họa cảnh hoàng hôn trên sông:
“Một lớp mây cao trồi lên những ngọn núi bạc,
Cánh chim nhỏ trong bóng tối
Những lớp mây nối tiếp nhau đùn ra, ngưng tụ rồi tụ lại thành những dãy núi trập trùng. Hoàng hôn như dát bạc trên những ngọn núi khiến chúng trở nên lấp lánh. Đọc đoạn thơ, ta hình dung được cảnh thiên nhiên ấy kỳ vĩ, tráng lệ như thế nào và làm ta liên tưởng đến câu thơ Đường:
“Lưng trời, sóng rung lòng sông sâu.
Mặt đất mây mù cổng xa ”.
Giữa đất trời bao la, nhà thơ đã vẽ nên một cánh chính lẻ loi và nhỏ bé. Cánh chim dường như đang mang nặng bóng chiều tà bay về phía mặt trời rồi khuất dạng. Tôi không thể không cảm thấy rằng những con chim đó cũng đang mang theo nỗi buồn vũ trụ, và nỗi buồn đó nặng nề đến mức chúng phải nghiêng đôi cánh nhỏ của mình.
Chính sự kết hợp giữa mây đùn, bầu trời bao la và những cánh chim nhỏ bé đã mang đến dư vị cổ điển cho tác phẩm của Huy Cận. Qua đó, người đọc cũng thấy rõ nỗi băn khoăn về không gian của Huy Cận. Đứng một mình trước vũ trụ bao la, đối diện với nỗi cô đơn, nhà thơ thấu hiểu sự vô cùng, vĩnh hằng của không gian, thời gian, đồng thời là sự ngắn ngủi, hữu hạn của kiếp người.
Ở hai câu thơ cuối, nỗi cô đơn sầu muộn của Huy Cận như được nhân đôi khi nhìn những gợn sóng trên sông:
Trái tim của đất nước phồng lên vì nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Lúc này điểm nhìn của nhà thơ đã chuyển từ trên cao xuống thấp, từ trên trời xuống mây, cánh chim trên không rồi dừng lại trước mặt nước. Từ “nhấp nhô” có sức gợi, vẽ những con sóng nhấp nhô trên mặt nước và khiến người xem cảm thấy choáng ngợp bởi những lớp sóng cứ chồng chất lên nhau. Nhịp 4/3 của dòng gợi lên trạng thái gặp gỡ của sóng. Huy Cận đứng nhìn sóng biển miên man, nỗi nhớ quê hương cuối cùng trỗi dậy,
Trong thơ cổ điển, hình ảnh khói sóng trên sông đã trở thành nguyên nhân và dễ gợi nhớ nỗi nhớ của nhà thơ. Và ở đây, Huy Cận đã không còn bị tác động bởi những yếu tố ngoại cảnh, khói lửa hoàng hôn để nói về nỗi nhớ quê hương da diết. Vì thế, phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ. Có thể thấy, Huy Cận không nhắc lại cố nhân với lý do nhớ quê, nhưng vẫn khiến người đọc không khỏi bồi hồi, nhớ nhung.
Nhưng hơn hết, tấm lòng dành cho quê hương không chỉ là nỗi nhớ nhà mà sâu xa hơn là nỗi buồn. Nỗi buồn của cả một thế hệ, một lớp người vì nước mất nhà tan. Bởi vậy, sau nỗi nhớ quê hương da diết ấy còn ẩn chứa tình yêu quê hương đất nước sâu sắc nhưng không kém phần sâu sắc của Huy Cận.
Kết luận khi phân tích hai khổ thơ cuối của bài thơ.
Có thể nói, hai khổ thơ cuối của bài thơ “Tràng giang” là sự hội tụ những nét nghệ thuật và nội dung sâu sắc của cả bài thơ. Ở đây chúng ta có thể thấy phong cách cổ điển kết hợp hài hòa với tinh thần hiện đại của bố cục, và sự hài hòa giữa cảm xúc cá nhân và tư duy đương đại. Chính những cộng hưởng ấy đã làm cho tâm trạng, cảm xúc, nỗi sầu cô đơn và nỗi nhớ quê hương da diết, dai dẳng của Huy Cận.
Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang
#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
[rule_3_plain]#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy được niềm hoài vọng quê hương da diết của Huy Cận, trước cảnh sông nước bao la.
#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
Mở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm Huy Cận là nhà thơ nổi bật của phong trào thơ mới và là một trong những cây đại thụ của thơ ca Việt Nam hiện đại. Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta sẽ thấy được cái đặc trưng đặc biệt của thơ Huy Cận. Ông thường được nhắc nhớ bởi hồn thơ của những nỗi sầu vạn cổ hay nhà thơ của những nỗi niềm khắc khoải không gian.Bài thơ “Tràng giang” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Huy Cận, được in trong tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay nhưng đã thể hiện được cái “chín” trong sáng tác của ông. Bài thơ gợi mở không gian sông Hồng, đoạn bến Chèm vào mùa nước nổi. Thời điểm viết bài thơ Huy Cận đang là sinh viên của trường Cao đẳng Canh nông. Đứng trước cảnh sông nước mênh mông, ông thể hiện tâm trạng cô đơn, u sầu và sự lạc loài của số kiếp con người trước vũ trụ bao la, vô thủy, vô chung. Điều này người đọc có thể cảm nhận rõ nhất ở hai khổ cuối bài thơ.“Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Thân bài Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang khổ thứ ba Trước khi đi vào phân tích hai khổ cuối bài thơ, ta điểm qua ý nghĩa của nhan đề bài thơ. “Tràng giang” là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, trang trọng và gợi cho ta nhớ đến dòng sông li biệt từng gặp trong thơ Lí Bạch. Bên cạnh đó, vần “ang” trong hai từ khi đọc lên như vang vọng và gợi không gian mênh mông xa vắng, cái trải dài của bãi bờ sông nước. Vì vậy, ngay từ nhan đề, Huy Cận đã mở ra một cửa ngỏ nhìn vào cái vô biên. Hai chữ “Trường giang” ngắn gọn nhưng đã khái quát và phần nào đã làm rõ tư tưởng, thông điệp của nhà thơ muốn gửi gắm trong bài thơ.Bên cạnh đó, để phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang sâu sắc hơn, ta không thể bỏ qua lời đề từ của bài thơ: “Bông khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Chỉ một câu thơ nhưng Huy Cận đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của cả tác phẩm. Đó là nỗi bâng khuâng, lòng thương nhớ của một con người bé nhỏ trước cảnh trời rộng sông dài. Như vậy, lời đề từ chính là chìa khóa để người đọc mở cánh cửa và khám phá nội dung của bài thơ.Đọc toàn bài thơ, ta thấy ở khổ thứ nhất nhà thơ hướng cái nhìn cảnh về những con sóng lăn tăn mặt sông, dừng mắt trên chiếc thuyền nhỏ lẻ loi, rồi một cảnh củi khô lạc loài giữa bốn bề sông nước; ở khổ thứ hai, Huy Cận đưa mắt ra xa hơn, rộng hơn với cái nhìn toàn cảnh mênh mông. Và đến khổ thứ ba, Huy Cận lại nhìn về dòng sông, như đang đưa mắt tìm kiếm những điều thân thuộc, chút hơi ấm cho tâm hồn đang cô đơn, lạnh giá. Nhưng khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy thiên nhiên dường như chỉ hờ hững trước những mong mỏi ấy của nhà thơ, bởi xung quanh bốn bề chỉ là vẻ đìu hiu, quạnh quẽ:“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.Thay vì những thuyền, những cành củi khô hiện lên trong cái nhìn cận cảnh dòng sông ở khổ đầu; ở khổ thứ ba này hiện lên hình ảnh không kém phần buồn bã: những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Dòng sông vốn đã “buồn điệp điệp”, sự xuất hiện của những cánh bèo trôi nổi càng làm cho con nước thêm hiu quạnh. Những cánh bèo dạt ấy là sự nối tiếp của hình ảnh “con thuyền xuôi mái” và “củi một cành khô” xuất hiện ở khổ thơ đầu. Và cũng từ đây, từ hình ảnh cánh bèo trôi dạt, cảm giác về kiếp người phù du vô định cũng được gợi ra. Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, câu thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng” được ngắt nhịp 2/2/1/2. Cách ngắt nhịp này thể hiện được sự dao động của sóng nước và cũng khắc họa trạng thái dập dềnh của những cánh bèo đang rôi dạt trên sông.Còn với hai chữ “về đâu” Huy Cận muốn nói lên sự mất phương hướng, sự hoang mang và những dự cảm bất an về số phận con người trong thế giới không có sự gắn kết, sẻ chia. Giữa cuộc đời trăm ngả, bộn bề sống nhưng cô đơn, con người không biết phải đi về đâu. Huy Cận không biết phải hỏi ai nên tự hỏi mình, nhưng không tìm thấy một lời giải đáp.Đứng trước cảnh trời nước bao lao, nhà thơ mang tâm tình hướng đến sự giao cảm với con người, mong rằng sẽ bớt cô đơn, bớt quạnh hiu. Nhưng làm sao có thể thấy được an ủi, khi “Mênh mông không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mật. Cái vẻ trống trải cô đơn của nhà thơ được tô đậm bổ hai từ phủ định “không” liên tiếp. Thực tế cây cầu hay con đò là những cảnh vật ta vẫn thường bắt gặp ở những niềm sông nước, bởi đó là phương tiện đi lại, phương tiện liên hệ, gặp giữa của con người. Nhưng ở đây nhà thơ lại không hề thấy xuất hiện. Không có cây cầu nối hai bờ sông nước để gần gũi, không có một chuyến đò để đón đưa khách qua sông. Mọi thứ chỉ là vẻ hoang vắng, là màu vàng màu xanh của bãi bờ tiếp nối nhau:“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”“Lặng lẽ” là từ láy gợi tả vẻ im lặng của không gian, cùng với hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi” không gian đôi bờ tràng giang càng thêm hoang vắng, tiêu điều. Đọc câu thơ, người đọc có thể cảm nhận rõ dòng chảy lững lờ của con sông qua khúc này tới quãng khác, nhưng luôn giữ cái vẻ âm thầm, vắng lặng. Dòng chảy của sông Hồng lúc này thật khác với vẻ tươi vui, xanh biếc của sông Hương chảy về thành phố Huế trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường.Như vậy, khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang mà trước nhất ở khổ thứ ba, ta thấy hiện ra một thế giới mang vẻ hững hờ, rời rạc. Và ở thế này, con người càng thêm thấm thía nỗi cô đơn hoang vắng tột cùng. Cái cô đơn âu sầu ấy như thấm vào từng câu chữ, từng hình ảnh trong khổ thơ. Nó phản chiếu nỗi cô đơn đã trở thành một căn bệnh của con người trong xã hội ở thế kỉ XX. Căn bệnh đã xuất hiện nhiều trong văn học Phương Tây:Mỗi người đứng cô đơn trên trái đấtTim xuyên qua một tia nắng mặt trờiVà chia liChiều đã tắt Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang khổ cuối Kết thúc bài thơ, Huy Cận vẽ nên cảnh hoàng hôn về trên vùng sông nước. Nỗi cô đơn vẫn còn tiếp nối và trải ra cùng những con sóng, lênh đênh theo những con thuyền, theo cành củi lạc loài, theo những cánh bèo trôi nổi và cho đến cuối cùng, lại kết thụ ở đoạn thơ cuối:“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”Trong khổ thơ cuối bài “Tràng giang”, ta thấy Huy Cận chia đôi khổ thơ làm hai phần rõ rệt. Hai câu thơ trên gợi cảnh trời rộng bao la, hai câu cuối thì miêu tả cảnh sông dài. Mà song hành cùng với trời rộng, sông dài là nỗi cô đơn u sầu, là niềm nhớ, nỗi hoài hương da diết của thi nhân, đặc biệt là vào lúc hoàng hôn đang buông khép lại một ngày.Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy Huy Cận thật tài hoa khi vẽ nên một nét chấm phá đậm dấu ấn Đường thi, phác họa cảnh hoàng hôn vùng sông nước:“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saNhững lớp mây nối tiếp nhau, đùn dồn tụ, ngưng kết thành những dãy núi trùng điệp. Còn hoàng hôn như dát bạc lên những dãy núi, khiến chúng lấp lánh sáng ngời. Đọc câu thơ ta có thể hình dung ra khung cảnh thiên nhiên ấy thật kì vĩ, tráng lệ làm sao và gợi nhắc đến câu thơ Đường:“Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳmMặt đất mây đùn cửa ải xa”.Giữa vùng trời mênh mông, người thi sĩ vẽ thêm một cánh chinh đơn côi, bé bỏng. Cánh chim nhở như đang chở nặng bóng chiều tà đi về phía ánh dương rồi mất hút. Ta không khỏi cảm thấy cánh chim ấy cũng đang mang nỗi sầu vũ trụ, mà nỗi sầu ấy nặng quá, chúng phải nghiêng đôi cánh nhỏ.Chính sự kết hợp giữa các hình ảnh mây đùn đùn, trời mênh mông và cánh chim bé nhỏ đang mang đến dư vị cổ điển cho tác phẩm của Huy Cận. Qua đó, độc giả cũng thấy rõ niềm khắc khoải không gian của Huy Cận. Một mình đứng trước vũ trụ bao la, đối diện với nỗi cô đơn, nhà thơ càng thấm thía cái vô tận, vĩnh hàng của không gian, thời gian và đồng thời là cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người.Ở hai câu thơ cuối, nỗi cô đơn u hoài của Huy Cận còn tăng gấp bội khi ông dõi theo những con sóng đang gợn trôi trên dòng sông:Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.Lúc này điểm nhìn của nhà thơ đã dịch chuyển từ cao xuống thấp, từ trời mây núi, cánh chim giữa không trung rồi dừng lại trước mặt nước dập dềnh sóng. Từ láy “dờn dợn” mang tính gợi hình, vẽ ra những con sóng đang nhấp nhô trên mặt nước và khiến người nhìn rợn ngợp bởi những lớp sóng cứ dồn gối lên nhau. Còn nhịp 4/3 của dòng thơ lại gợi trạng thái gặp gỡ của những con sóng. Huy Cận đứng và phóng tầm mắt dõi theo những con sóng cứ dập dềnh triền miên, nỗi hoài nhớ quê hương cuối cùng đã dâng lên,Trong thơ cổ điển,hình ảnh khói sóng trên sông đã trở thành nguyên cớ, thành cái dễ gợi nhắc nỗi niềm hoài hương của người thi sĩ. Còn ở đây, Huy Cận đã không còn bị tác động bởi yếu tố ngoại cảnh, là khói hoàng hôn để nói về nỗi niềm da diết nhớ quê hương. Như vậy, phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, Huy Cận đã không lặp lại người xưa ở cái nguyên cớ nhớ quê nhưng vẫn khiến người đọc thấy bâng khuâng, nao nao thương nhớ.Nhưng hơn hết, nỗi lòng đối với quê hương không chỉ là nỗi nhớ nhà mà sâu sắc hơn, là nỗi buồn. Nỗi buồn của cả một thế hệ, một lớp người bởi cảnh nước mất nhà tan. Vì vậy, đăng sau nỗi nhớ quê nhà da diết ấy còn ẩn chứa tình yêu đất nước tầm kín mà sâu sắc của Huy Cận. Kết luận khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang Có thể nói, hai khổ thơ cuối bài “Tràng giang” là nơi hội tụ những đặc sắc nghệ thuật, nội dung sâu sắc của cả bài thơ. Ở đây ta thấy được phong vị cổ điển kết hợp hài hòa với tinh thần sáng tác hiện đại, và sự hài hòa giữa cảm xúc cá nhân và suy tư thời đại. Chính những sự cộng hưởng này đã khiến tâm trạng, cảm xúc, nỗi u sầu cô đơn và nỗi hoài vọng quê hương của Huy Cận càng thêm da diết, triền miên.
#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
Mở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm Huy Cận là nhà thơ nổi bật của phong trào thơ mới và là một trong những cây đại thụ của thơ ca Việt Nam hiện đại. Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta sẽ thấy được cái đặc trưng đặc biệt của thơ Huy Cận. Ông thường được nhắc nhớ bởi hồn thơ của những nỗi sầu vạn cổ hay nhà thơ của những nỗi niềm khắc khoải không gian.Bài thơ “Tràng giang” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Huy Cận, được in trong tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay nhưng đã thể hiện được cái “chín” trong sáng tác của ông. Bài thơ gợi mở không gian sông Hồng, đoạn bến Chèm vào mùa nước nổi. Thời điểm viết bài thơ Huy Cận đang là sinh viên của trường Cao đẳng Canh nông. Đứng trước cảnh sông nước mênh mông, ông thể hiện tâm trạng cô đơn, u sầu và sự lạc loài của số kiếp con người trước vũ trụ bao la, vô thủy, vô chung. Điều này người đọc có thể cảm nhận rõ nhất ở hai khổ cuối bài thơ.“Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Thân bài Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang khổ thứ ba Trước khi đi vào phân tích hai khổ cuối bài thơ, ta điểm qua ý nghĩa của nhan đề bài thơ. “Tràng giang” là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, trang trọng và gợi cho ta nhớ đến dòng sông li biệt từng gặp trong thơ Lí Bạch. Bên cạnh đó, vần “ang” trong hai từ khi đọc lên như vang vọng và gợi không gian mênh mông xa vắng, cái trải dài của bãi bờ sông nước. Vì vậy, ngay từ nhan đề, Huy Cận đã mở ra một cửa ngỏ nhìn vào cái vô biên. Hai chữ “Trường giang” ngắn gọn nhưng đã khái quát và phần nào đã làm rõ tư tưởng, thông điệp của nhà thơ muốn gửi gắm trong bài thơ.Bên cạnh đó, để phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang sâu sắc hơn, ta không thể bỏ qua lời đề từ của bài thơ: “Bông khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Chỉ một câu thơ nhưng Huy Cận đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của cả tác phẩm. Đó là nỗi bâng khuâng, lòng thương nhớ của một con người bé nhỏ trước cảnh trời rộng sông dài. Như vậy, lời đề từ chính là chìa khóa để người đọc mở cánh cửa và khám phá nội dung của bài thơ.Đọc toàn bài thơ, ta thấy ở khổ thứ nhất nhà thơ hướng cái nhìn cảnh về những con sóng lăn tăn mặt sông, dừng mắt trên chiếc thuyền nhỏ lẻ loi, rồi một cảnh củi khô lạc loài giữa bốn bề sông nước; ở khổ thứ hai, Huy Cận đưa mắt ra xa hơn, rộng hơn với cái nhìn toàn cảnh mênh mông. Và đến khổ thứ ba, Huy Cận lại nhìn về dòng sông, như đang đưa mắt tìm kiếm những điều thân thuộc, chút hơi ấm cho tâm hồn đang cô đơn, lạnh giá. Nhưng khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy thiên nhiên dường như chỉ hờ hững trước những mong mỏi ấy của nhà thơ, bởi xung quanh bốn bề chỉ là vẻ đìu hiu, quạnh quẽ:“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.Thay vì những thuyền, những cành củi khô hiện lên trong cái nhìn cận cảnh dòng sông ở khổ đầu; ở khổ thứ ba này hiện lên hình ảnh không kém phần buồn bã: những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Dòng sông vốn đã “buồn điệp điệp”, sự xuất hiện của những cánh bèo trôi nổi càng làm cho con nước thêm hiu quạnh. Những cánh bèo dạt ấy là sự nối tiếp của hình ảnh “con thuyền xuôi mái” và “củi một cành khô” xuất hiện ở khổ thơ đầu. Và cũng từ đây, từ hình ảnh cánh bèo trôi dạt, cảm giác về kiếp người phù du vô định cũng được gợi ra. Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, câu thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng” được ngắt nhịp 2/2/1/2. Cách ngắt nhịp này thể hiện được sự dao động của sóng nước và cũng khắc họa trạng thái dập dềnh của những cánh bèo đang rôi dạt trên sông.Còn với hai chữ “về đâu” Huy Cận muốn nói lên sự mất phương hướng, sự hoang mang và những dự cảm bất an về số phận con người trong thế giới không có sự gắn kết, sẻ chia. Giữa cuộc đời trăm ngả, bộn bề sống nhưng cô đơn, con người không biết phải đi về đâu. Huy Cận không biết phải hỏi ai nên tự hỏi mình, nhưng không tìm thấy một lời giải đáp.Đứng trước cảnh trời nước bao lao, nhà thơ mang tâm tình hướng đến sự giao cảm với con người, mong rằng sẽ bớt cô đơn, bớt quạnh hiu. Nhưng làm sao có thể thấy được an ủi, khi “Mênh mông không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mật. Cái vẻ trống trải cô đơn của nhà thơ được tô đậm bổ hai từ phủ định “không” liên tiếp. Thực tế cây cầu hay con đò là những cảnh vật ta vẫn thường bắt gặp ở những niềm sông nước, bởi đó là phương tiện đi lại, phương tiện liên hệ, gặp giữa của con người. Nhưng ở đây nhà thơ lại không hề thấy xuất hiện. Không có cây cầu nối hai bờ sông nước để gần gũi, không có một chuyến đò để đón đưa khách qua sông. Mọi thứ chỉ là vẻ hoang vắng, là màu vàng màu xanh của bãi bờ tiếp nối nhau:“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”“Lặng lẽ” là từ láy gợi tả vẻ im lặng của không gian, cùng với hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi” không gian đôi bờ tràng giang càng thêm hoang vắng, tiêu điều. Đọc câu thơ, người đọc có thể cảm nhận rõ dòng chảy lững lờ của con sông qua khúc này tới quãng khác, nhưng luôn giữ cái vẻ âm thầm, vắng lặng. Dòng chảy của sông Hồng lúc này thật khác với vẻ tươi vui, xanh biếc của sông Hương chảy về thành phố Huế trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường.Như vậy, khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang mà trước nhất ở khổ thứ ba, ta thấy hiện ra một thế giới mang vẻ hững hờ, rời rạc. Và ở thế này, con người càng thêm thấm thía nỗi cô đơn hoang vắng tột cùng. Cái cô đơn âu sầu ấy như thấm vào từng câu chữ, từng hình ảnh trong khổ thơ. Nó phản chiếu nỗi cô đơn đã trở thành một căn bệnh của con người trong xã hội ở thế kỉ XX. Căn bệnh đã xuất hiện nhiều trong văn học Phương Tây:Mỗi người đứng cô đơn trên trái đấtTim xuyên qua một tia nắng mặt trờiVà chia liChiều đã tắt Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang khổ cuối Kết thúc bài thơ, Huy Cận vẽ nên cảnh hoàng hôn về trên vùng sông nước. Nỗi cô đơn vẫn còn tiếp nối và trải ra cùng những con sóng, lênh đênh theo những con thuyền, theo cành củi lạc loài, theo những cánh bèo trôi nổi và cho đến cuối cùng, lại kết thụ ở đoạn thơ cuối:“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”Trong khổ thơ cuối bài “Tràng giang”, ta thấy Huy Cận chia đôi khổ thơ làm hai phần rõ rệt. Hai câu thơ trên gợi cảnh trời rộng bao la, hai câu cuối thì miêu tả cảnh sông dài. Mà song hành cùng với trời rộng, sông dài là nỗi cô đơn u sầu, là niềm nhớ, nỗi hoài hương da diết của thi nhân, đặc biệt là vào lúc hoàng hôn đang buông khép lại một ngày.Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy Huy Cận thật tài hoa khi vẽ nên một nét chấm phá đậm dấu ấn Đường thi, phác họa cảnh hoàng hôn vùng sông nước:“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saNhững lớp mây nối tiếp nhau, đùn dồn tụ, ngưng kết thành những dãy núi trùng điệp. Còn hoàng hôn như dát bạc lên những dãy núi, khiến chúng lấp lánh sáng ngời. Đọc câu thơ ta có thể hình dung ra khung cảnh thiên nhiên ấy thật kì vĩ, tráng lệ làm sao và gợi nhắc đến câu thơ Đường:“Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳmMặt đất mây đùn cửa ải xa”.Giữa vùng trời mênh mông, người thi sĩ vẽ thêm một cánh chinh đơn côi, bé bỏng. Cánh chim nhở như đang chở nặng bóng chiều tà đi về phía ánh dương rồi mất hút. Ta không khỏi cảm thấy cánh chim ấy cũng đang mang nỗi sầu vũ trụ, mà nỗi sầu ấy nặng quá, chúng phải nghiêng đôi cánh nhỏ.Chính sự kết hợp giữa các hình ảnh mây đùn đùn, trời mênh mông và cánh chim bé nhỏ đang mang đến dư vị cổ điển cho tác phẩm của Huy Cận. Qua đó, độc giả cũng thấy rõ niềm khắc khoải không gian của Huy Cận. Một mình đứng trước vũ trụ bao la, đối diện với nỗi cô đơn, nhà thơ càng thấm thía cái vô tận, vĩnh hàng của không gian, thời gian và đồng thời là cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người.Ở hai câu thơ cuối, nỗi cô đơn u hoài của Huy Cận còn tăng gấp bội khi ông dõi theo những con sóng đang gợn trôi trên dòng sông:Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.Lúc này điểm nhìn của nhà thơ đã dịch chuyển từ cao xuống thấp, từ trời mây núi, cánh chim giữa không trung rồi dừng lại trước mặt nước dập dềnh sóng. Từ láy “dờn dợn” mang tính gợi hình, vẽ ra những con sóng đang nhấp nhô trên mặt nước và khiến người nhìn rợn ngợp bởi những lớp sóng cứ dồn gối lên nhau. Còn nhịp 4/3 của dòng thơ lại gợi trạng thái gặp gỡ của những con sóng. Huy Cận đứng và phóng tầm mắt dõi theo những con sóng cứ dập dềnh triền miên, nỗi hoài nhớ quê hương cuối cùng đã dâng lên,Trong thơ cổ điển,hình ảnh khói sóng trên sông đã trở thành nguyên cớ, thành cái dễ gợi nhắc nỗi niềm hoài hương của người thi sĩ. Còn ở đây, Huy Cận đã không còn bị tác động bởi yếu tố ngoại cảnh, là khói hoàng hôn để nói về nỗi niềm da diết nhớ quê hương. Như vậy, phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, Huy Cận đã không lặp lại người xưa ở cái nguyên cớ nhớ quê nhưng vẫn khiến người đọc thấy bâng khuâng, nao nao thương nhớ.Nhưng hơn hết, nỗi lòng đối với quê hương không chỉ là nỗi nhớ nhà mà sâu sắc hơn, là nỗi buồn. Nỗi buồn của cả một thế hệ, một lớp người bởi cảnh nước mất nhà tan. Vì vậy, đăng sau nỗi nhớ quê nhà da diết ấy còn ẩn chứa tình yêu đất nước tầm kín mà sâu sắc của Huy Cận. Kết luận khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang Có thể nói, hai khổ thơ cuối bài “Tràng giang” là nơi hội tụ những đặc sắc nghệ thuật, nội dung sâu sắc của cả bài thơ. Ở đây ta thấy được phong vị cổ điển kết hợp hài hòa với tinh thần sáng tác hiện đại, và sự hài hòa giữa cảm xúc cá nhân và suy tư thời đại. Chính những sự cộng hưởng này đã khiến tâm trạng, cảm xúc, nỗi u sầu cô đơn và nỗi hoài vọng quê hương của Huy Cận càng thêm da diết, triền miên.
#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
[rule_3_plain]#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy được niềm hoài vọng quê hương da diết của Huy Cận, trước cảnh sông nước bao la.
Thông tin thêm
Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang
#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
[rule_3_plain]#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
[rule_1_plain]#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
[rule_2_plain]#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
[rule_2_plain]#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
[rule_3_plain]#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang
[rule_1_plain]Nguồn: https://ecogreengiapnhi.net/
#Phân #tích #hai #khổ #thơ #cuối #bài #tràng #giang